Phật dạy: “Nếu muốn biết pháp này thành hay không thành, phải y pháp tụng chú, mãn đủ 7 ngày, liền trong chiêm bao mộng thấy Phật và Bồ Tát ban cho hoa trái, miệng mửa ra vật đen, sau lại ăn vật trắng, tức biết thành tựu.
Phật dạy: “Đà La Ni này có thế lực rất lớn, chí tâm tụng trì quyết phải tự chứng. Có công năng khiến cây khô phát sanh hoa, trái, huống gì nhũng quả báo ở thế gian. Nếu thường trì tụng thì thủy, hỏa, đao binh, oán gia độc dược đều không hại. Nếu người bị quỷ thần làm bịnh chết, kiết ấn tụng chú này 7 biến, lấy ấn, ấn nơi tại ngực đều khiến sống trở lại. Gia đình, nhà cửa ở không yên, bị quỷ thần gây họa, trì chú, chú vào bốn hòn đất, đem trấn 4 phía thì liền đi.
Phật dạy: “Nếu người trong lục thân không hòa, không nghĩ tình thương nhau, nên y pháp tụng chú hướng về lục thân thì được hòa hợp nghe tên thấy thân đều được hoan hỷ. Phàm cầu việc gì cũng vừa lòng toại tâm. Huống người trai giới đầy đủ, nhất tâm thanh tịnh y pháp tụng trì, thì nhất định chuyển thân này tức chứng Bồ Đề có được công lực.
Phật dạy: “ Thần Chú này có công năng diệt trừ Thập Ác, Ngũ Nghịch tất cả tội chướng. Thành tựu tất cả bách Pháp công đức. Trì Chú này dù ở tại gia hay xuất gia, không lựa kẻ tịnh người uế; chỉ chí Tâm trì tụng hay khiến Chúng Sanh đời sống ngắn ngủi, sẽ tăng thọ vô lượng. Ca Ma La Tật là bệnh nan y, còn trị lành, huống chi các bệnh khác; nếu không tiêu diệt là không có lý.
Phật dạy: “ Thần Chú này có công năng diệt trừ Thập Ác, Ngũ Nghịch tất cả tội chướng. Thành tựu tất cả bách Pháp công đức. Trì Chú này dù ở tại gia hay xuất gia, không lựa kẻ tịnh người uế; chỉ chí Tâm trì tụng hay khiến Chúng Sanh đời sống ngắn ngủi, sẽ tăng thọ vô lượng. Ca Ma La Tật là bệnh nan y, còn trị lành, huống chi các bệnh khác; nếu không tiêu diệt là không có lý.
Nếu có ai tụng mãn (49 ngày), Chuẩn Ðề Bồ Tát khiến hai vị Thánh thường theo người đó, kẻ nào có Tâm niệm thiện ác, đều mỗi mỗi báo hiệu hai bên tai người đó đầy đủ.Nếu có người vô phước vô tướng cầu quan không toại ý, nghèo cùng khốn khổ, bức bách thường tụng Chú này sẽ khiến hiện đời được phước báu như Luân Vương cầu xin quan vị quyết được xứng toại. ”
Trong Thiền Tông, truyện Ðăng Lục có dẫn tích người xưa: “Cu Chi chỉ niệm Tam Hành Chú, mà được danh tiếng hơn người. Vì thế cho nên Chuẩn Ðề Thần Chú rất thù thắng linh diệu.
Nếu cầu Trí Huệ được Ðại Trí Huệ; cầu nam nữ lại được nam nữ.
Phàm có sở cầu, đều được xứng lòng và toại ý, giống Ngọc Như Ý; tất cả tùy Tâm mình muốn. Hơn nữa, tụng Chú này thường khiến cho các Quốc Vương, Ðại Thần và Tứ Chúng đều sanh lòng kính yêu, thảy đều hoan hỷ. Người tụng Chú này, xuống nước không chết chìm, nạn lửa không thể đốt, độc dược, oan gia, quân trận, cường tặc và Ác Long, thú, các loài Quỷ Mị đều không thể hại.
Nếu muốn thỉnh: Phạm Vương, Ðế Thích, Tứ Thiên Vương, Diêm La, Thiên Tử v.v… Chỉ tụng Chú này tùy thỉnh, quyết đến, không dám trước sau chậm trễ. Hoặc có sai khiến gì được như ý muốn. Thần Chú này có thế lực lớn đối vối Nam Thiệm Bộ Châu. Dời núi Tu Di; khô nước Ðại Hải; Chú vào cây khô sẽ phát sanh hoa quả. Huống chi là người năng y Pháp trì tụng, có thể chuyển nhục thân, được Ðại Thần Túc, sanh về cõi Trời Ðâu Suất.
Phật dạy: “Nếu y pháp tụng trì, nhất tâm tinh cần, thì công lực nói không thể hết. Kính Đàn pháp này không được cho người khác thấy nếu thấy thì không tốt, mất linh nghiệm, không được thành tựu viên mãn. Pháp này cần phải bí mật, không được tuyên nói, hãy tự mình chứng biết. Tùy ý mong cầu quyết được thành tựu thọ hưởng được cái vui nhiệm mầu thù thắng”.
Câu chú này trích trong Kinh Chuẩn Đề. Bốn câu kệ đầu là : "Khể thủ quy y Tô tất Đế," v.v... cho đến "Duy nguyện từ bi thùy gia hộ" là của Ngài Long Thọ Bồ Tát. Trong bốn câu kệ :
* Câu đầu là nói về Pháp Bảo : câu hai là nói về Phật Bảo; câu thứ ba là nói về Tăng Bảo; câu thứ tư là nói mình xin nhờ ơn sự gia hộ của Tam Bảo.
* Khể thủ quy y Tô Tất Đế : nghĩa là cúi đầu quy kính Pháp Viên Thành (pháp nhiệm mầu). Chữ Tô Tất Đế : nguyên tiếng Phạn là Susidhi, Tàu dịch là Diệu Thành Tựu, nghĩa là một pháp có năng lực thành tựu được hết thảy sự lý và thành tựu đặng hết thảy tâm nguyện của chúng sanh rất mầu nhiệm.
* Đầu diện đảnh lễ Thất Cu Chi (cu đê) : nghĩa là thành tâm đảnh lễ bảy trăm ức Phật. Chữ "Cu Chi" hay là "Cu Đê", nguyên tiếng Phạn là "Koti", Tàu dịch là bách ức, nghĩa là trăm ức; cho nên trên đây nói "thất cu chi" tức là số bảy trăm ức vậy.
* Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề : nghĩa là con nay xưng tán đức Đại Chuẩn Đề. Chữ "Chuẩn Đề", nguyên tiếng Phạn là "Candi", Tàu dịch có hai nghĩa : 1) Thi Vi, 2) Thành Tựu.
Thi Vi : nghĩa là lời nguyện rộng lớn đúng nơi lý và dùng đại trí để dứt vọng hoặc, vì đủ các nhơn hạnh để ra làm việc lợi tha cho chúng sanh, nên gọi là Thi Vi.
Thành Tựu : nghĩa là từ nơi pháp không mà hiện ra pháp giả rồi thành tựu đặng pháp tịch diệt.
Sở dĩ Chú này xưng là "Phật Mẫu Chuẩn Đề" là nói : Pháp là thầy và thiệt trí, là mẹ của chư Phật, cho nên bảy trăm ức Phật đều dùng pháp "Chuẩn Đề Tam Muội" mà chứng đạo Bồ Đề.
Trong kinh Chuẩn Đề nói rằng : Khi Phật ở vườn Kỳ Đà vì có tứ chúng bát bộ đông đủ, Ngài nghĩ thương những chúng sanh đời mạt pháp sau này, tội dày phước mỏng, nên mới nhập "Chuẩn Đề Định" mà thuyết thần chú như vầy:nguoiphattu.com
Nam Mô Tát Đa Nẩm, Tam Miệu Tam Bồ Đề, Cu Chi Nẩm, Đát Điệt Tha, Án, Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề, Ta bà Ha.
Phật nói : Nếu trì chú này mãn chín mươi vạn (900.000) biến thì diệt trừ được các tội thập ác, ngũ nghịch và tứ trọng; cho đến nhà thế tục chẳng luận tịnh hay uế, chỉ cần chí tâm trì tụng, liền được tiêu trừ tai nạn bệnh hoạn, tăng trưởng phước thọ. Khi tụng mãn 49 ngày, Bồ Tát Chuẩn Đề khiến hai vị Thánh thường theo người ấy hộ trì.
Nếu có người hoặc cầu mở trí tuệ, hoặc cầu chống tai nạn, hoặc cầu pháp thần thông, hoặc cầu đạo Chánh Giác, chỉ y theo pháp thiết lập đàn tràng, tụng đủ một trăm vạn (1.000.000) biến thì đặng đi khắp mười phương Tịnh Độ, phụng thờ chư Phật, nghe cả diệu pháp mà được chứng quả Bồ Đề.